KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG TRUNG CẤP PHẬT HỌC ĐÀ NẴNG VÀ
NGUYỆN VỌNG CẤP THIẾT XIN ĐẤT XÂY DỰNG TRƯỜNG
PHẦN A: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TRƯỜNG TRUNG CẤP PHẬT HỌC THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
I. CƠ SỞ PHÁP LÝ
1. Căn cứ Luật Giáo dục Việt Nam;
2. Căn cứ Luật Tín ngưỡng tôn giáo;
3. Căn cứ Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN);
4. Căn cứ Quy chế hoạt động của Ban giáo dục Phật giáo Trung ương;
5. Căn cứ Quy chế hoạt động của Ban Trị sự GHPGVN TP. Đà Nẵng;
6. Căn cứ Công văn số 582/BTS-VP ngày 12 tháng 9 năm 1991 trình Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng và Ban Tôn giáo tỉnh xin phép mở trường Cơ Bản Phật học;
7. Căn cứ Công văn số 78/CV/TGCP ngày 12 tháng 3 năm 1992 của Ban Tôn giáo Chính phủ về việc phê chuẩn để Ban Trị sự giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng mở trường Cơ Bản Phật học;
8. Căn cứ Quyết định số 1351/QĐ-UB ngày 19 thánh 5 năm 1992 của Ủy Ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, cho phép Ban Trị sự giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng mở trường Cơ Bản Phật học;
9. Căn cứ quyết định số 3595/QĐ-UB ngày 25/9/1997 chuẩn y việc thành lập trường Cơ bản Phật học của UBND thành phố Đà Nẵng và có con dấu riêng để giao dịch theo đề nghị của Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP. Đà Nẵng;
10. Căn cứ Công văn số 265/CV/HĐTS ngày 11/11/1999 của Hội Đồng Trị sự GHPGVN về việc xin phép đổi tên gọi “Trường Cơ Bản Phật Học” trên cả nước thành “Trường Trung cấp Phật học” và đã được chấp thuận theo;
11. Căn cứ Công văn số 14/QĐ/TGCP ngày 29 tháng 02 năm 2000 của Ban Tôn giáo Chính phủ về việc thống nhất đổi tên gọi “Trường Cơ Bản Phật Học” thành “Trường Trung cấp Phật học”;
12. Căn cứ Công văn số 062/CV-HĐTS ngày 16 tháng 3 năm 2000 của Hội đồng Trị sự GHPGVN thông báo về Ban Trị sự các tỉnh thành thống nhất đổi tên gọi “Trường Cơ Bản Phật Học” thành “Trường Trung cấp Phật học”.
II. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG VÀ MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC PHẬT GIÁO CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn của nhân loại, bắt nguồn từ Ấn Độ. Theo thống kê hiện có khoảng trên bảy trăm triệu Phật tử khắp toàn thế giới và Phật giáo đang ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều giới học thuật phương Tây bởi giá trị chân thật của Phật pháp về phương thức giải hóa mọi xung đột và lòng thù hận, cùng nhau yêu thương, nguyện sống hòa bình.
Quả thật, Phật pháp là tập hợp những nguyên lý sống như nguyên lý: “Trung đạo”, “Duyên khởi”, “Vô Ngã”, “Vô Phân biệt”, “Như thật”, “Tương dung”, “Viên dung”, v.v. Đây là những nguyên lý có khả năng khai mở tuệ giác rộng lớn và tình thương không biên giới, để đạt tới hạnh phúc chân thật và tự do. Những nguyên lý này đã được một nhân vật lịch sử là Ngài Siddhartha Gautama tổng hợp từ sự chứng ngộ của chính mình. Sau khi chứng ngộ, Ngài được tôn xưng là Gautama Buddha (Đức Phật Cồ-đàm) hay Sakyamuni (bậc Thánh của dòng Thích – ca), và đã tích cực trao truyền những hiểu biết của mình cho loài người. Ngài nhận học trò, xây dựng nên một giáo đoàn gọi là Sangha (Tăng-già) và yêu cầu các đệ tử của mình sau khi chứng nghiệm chân lý giải thoát như mình, phải tích cực trao truyền giáo pháp ấy. Sau 45 năm tích cực dạy bảo loài người lối sống đạt tới chân hạnh phúc. Trước khi nhập Vô dư y Niết-bàn, Ngài dặn bảo đệ tử hãy lấy giáo pháp mà Ngài đã trao truyền làm người hướng dẫn và hãy nhiệt tình hướng dẫn lại cho hậu thế. Ngài được loài người hết lòng kính ngưỡng.
Ngược dòng sử Việt mấy ngàn năm qua, Phật giáo luôn đồng hành cùng với Dân tộc. Thật là tự hào khi điểm lại hành trạng của những vị vua kiêm thiền sư như Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông; những vị Thiền sư lại kiêm việc Triều chính như Vạn Hạnh Thiền sư, Mãn Giác Thiền sư…. Đây là những nhân cách sáng ngời của Tổ quốc, những bậc thầy tâm linh mô phạm, với tinh thần vô ngã, họ đã hòa quyện vào nhau để dựng xây tổ quốc, xiển dương Phật Pháp, lợi lạc nhân dân. Quả thật, đã từ lâu, trong Phật giáo, hàng ngũ Tăng Ni là nhân tố chủ lực để làm nên những cống hiến to lớn vào gia tài văn hóa của dân tộc. Vì vậy, giáo dục đào tạo Tăng Ni Phật tử tài đức là công tác vô cùng quan trọng của Giáo hội.
Sau ngày Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) được thành lập, tháng 11/1981, vấn đề giáo dục, đào tạo Tăng Ni và Cư sĩ tại gia đã được đặt ra như một nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Qua 40 năm phát triển và trưởng thành, GHPGVN đã có những bước tiến không ngừng về mọi mặt, trong đó công tác giáo dục đã có những thành tựu đáng kể, trường lớp đào tạo Phật học phát triển, tạo thành một hệ thống các cấp học khá hoàn thiện, đào tạo nhiều thế hệ Tăng Ni có trình độ Phật học và thế học, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng và phát triển GHPGVN, xây dựng đất nước Việt Nam vững mạnh.
Được sự cho phép của Đảng và Chính quyền từ Trung ương đến tỉnh thành phố, hệ thống các trường Phật học được thành lập gồm bốn Học viện Phật giáo: Hà Nội, Huế thành phố Hồ Chí Minh, và Cần Thơ. Có 34 trường trung cấp Phật học thuộc các Ban Trị sự tỉnh, thành hội Phật giáo trong cả nước và một số trường cao đẳng Phật học trực thuộc tỉnh và thành phố. Trong đó, trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng là một trong những trường nêu trên. Hiện tại Trung ương Giáo hội đã kiện toàn được hệ thống tổ chức giáo dục Phật giáo, từ hệ sơ cấp, trung cấp, đến thạc sĩ, tiến sĩ dành cho đối tượng là người xuất gia và Phật tử tại gia. Các trường Phật giáo không chỉ nghiên cứu về Phật học mà còn nghiên cứu về các vấn đề thuộc xã hội học, các lĩnh vực về đời sống văn hóa. Các trường đã từng bước đổi mới về phương pháp và cách thức tiếp cận đối với đối tượng là Tăng Ni sinh cũng như bà con Phật tử.
Mục đích giáo dục của GHPGVN là định hướng cho thế hệ Tăng Ni trẻ và Cư sĩ tại gia không những tu học đúng theo Giới luật Phật dạy và Hiến chương Giáo hội, mà còn biết tuân thủ chính sách và pháp luật nhà nước theo đường hướng “Đạo Pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, để hoàn thiện tư cách một người tu sĩ của Giáo hội và công dân gương mẫu đối với Tổ quốc. Vì vậy, chương trình giáo dục và đào tạo cho các cấp học theo khung chương trình do Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương quy định, ngoài các bộ môn nội điển Phật học, Giáo hội còn quy định đưa vào chương trình giảng dạy các chủ đề liên quan đến pháp luật nhà nước, luật tín ngưỡng Tôn giáo, Giáo dục An ninh Quốc phòng, lịch sử Việt Nam, v.v..
Trong hệ thống tổ chức của GHPGVN, Ban giáo dục Phật giáo là một trong 13 ban, ngành viện Trung ương giáo hội, do Hòa Thượng Tiến sĩ Thích Thanh Quyết, Phó chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa 13-14, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội làm Trưởng ban. Mọi hoạt động của cả hệ thống giáo dục Phật giáo các cấp học đều dưới sự chỉ đạo của Ban Thường trực Hội đồng Trị sự và Nội quy của Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương GHPGVN.
III. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TRƯỜNG TRUNG CẤP PHẬT HỌC TP. ĐÀ NẴNG
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
Phật giáo du nhập vào Đà Nẵng từ rất sớm, khoảng thế kỷ XIV. Đồng thời, từ khi hình thành đã gắn liền với quá trình lịch sử của thành phố Đà Nẵng, luôn đồng hành cùng với nhân dân thành phố trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng và phát triển.Thành phố Đà Nẵng là nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố địa lý được so sánh như một nước Việt Nam thu nhỏ. Những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ để hình thành các khu tâm linh như danh thắng Ngũ Hành Sơn, trong đó có du lịch tâm linh Phật giáo, là nơi lý tưởng để Phật giáo và các cơ sở Phật giáo có thể tọa lạc và phát triển. Năm 1927, Hòa Thượng Thích Tôn Thắng cho xây dựng một am thất bằng ngói lấy tên là Phổ Thiên tự, tọa lạc tại xã Bình Thuận, nay số 340 đường Phan Châu Trinh, P. Bình Thuận, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng. Tháng 4, năm Bảo Đại thứ 11 (năm 1936) được phong Sắc tứ Phổ Thiên tự. Năm 1933, Hòa Thượng Thích Tôn Thắng khởi xướng thành lập Phật học đường tại Đà Nẵng để đào tạo Tăng tài bằng cách kiến thiết ngôi chùa Phổ Thiên thành một chốn thiền môn khang trang hơn so với lúc ban đầu làm cơ sở cho Hội Phật học Đà thành.
Từ năm 1958, chùa Phổ Thiên được gọi Phật học viện Trung Phần của Giáo hội Phật giáo Trung Phần và đổi tên là chùa Phổ Đà. Trải qua hơn nửa thế kỷ, đã có các vị giáo phẩm từng lãnh đạo công tác giáo dục đào tạo Tăng Ni của Phật học viện Phổ Đà như: Hòa Thượng Thích Trí Hữu, Hòa Thượng Thích Minh Chiếu, Cố Hòa Thượng Thích Từ Mẫn (Nguyên Hiệu trưởng trường TCPH TP. Đà Nẵng) và hàng lớp chư Tăng Ni đã được đào tạo trở thành những vị Tôn túc như: Hòa Thượng Thích Huệ Thường (hiện đang là Thành viên Hồi đồng Chứng Minh TW GHPGVN, giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP. Đà Nẵng), Hòa Thượng Thích Từ Tánh (hiện là Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN, Trưởng Ban Trị sự kiêm Trưởng Ban Giáo dục Phật giáo GHPGVN TP. Đà Nẵng) và nhiều bậc Tôn túc khác.
Sau năm 1975, việc học tập nội điển của hàng xuất gia trẻ chủ yếu mang tính gia giáo. Các lớp Phật học gia giáo lần lượt được mở tại các Tổ đình, Tự viện đặc biệt là Chùa Phổ Đà, v.v…
Từ năm 1987, tiếp nối sự ra đời của các trường Cao cấp Phật học trước đó (nay là 4 Học viện Phật giáo), các trường Cơ bản Phật học tại nhiều địa phương được mở ra, nền giáo dục Phật giáo Việt Nam bắt đầu đi vào hệ thống. Vào năm 1990, Cố Hòa Thượng Thích Quang Thể, Ủy viên Hội đồng Trị sự TW GHPGVN, Trưởng Ban Trị sự Tỉnh Hội Phật Giáo Quảng Nam Đà Nẵng đã vận động chư Tôn đức bàn kế hoạch mở Trường Cơ Bản Phật Học.
Được sự chấp thuận và hướng dẫn của Trung Ương Giáo Hội và Ban Giáo Dục Tăng Ni Trung Ương, ngày 12/9/1991, Ban Trị sự Tỉnh Hội Phật Giáo Quảng Nam Đà Nẵng có Công văn số 582/BTS-VP trình Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng và Ban Tôn giáo tỉnh xin phép mở trường Cơ Bản Phật học. Sau đó, được Ban Tôn giáo Chính phủ phê chuẩn theo Công văn số 78/CV/TGCP ngày 12-3/1992 và quyết định số 1351/QĐ-UB ngày 19-05-1992, của Ủy Ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, cho phép Ban Trị sự giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng mở trường Cơ Bản Phật học. Ban Trị Sự Phật Giáo Tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng đã long trọng tổ chức lễ khai giảng khóa I Trường Cơ Bản Phật Học Quảng Nam Đà Nẵng vào ngày 10-11-1992 (16-10- Nhâm Thân) tại chùa Phổ Đà trong niềm hoan hỉ của chư Tăng Ni và Phật tử gần xa.
Năm 1997, sau khi chia tách tỉnh, thành phố, UBND thành phố Đà Nẵng một lần nữa đã ban hành quyết định số 3595/QĐ-UB ngày 25/9/1997 chuẩn y việc thành lập trường Cơ bản Phật học và có con dấu riêng để giao dịch theo đề nghị của Ban Trị sự Thành hội Phật giáo thành phố Đà Nẵng.
Xét đề nghị của Ban Thường trực Hội Đồng Trị sự GHPGVN tại Công văn số 265/CV/HĐTS ngày 11/11/1999 về việc xin phép đổi tên gọi “Trường Cơ Bản Phật Học” trên cả nước thành “Trường Trung cấp Phật học” và đã được Ban Tôn giáo Chính phủ chấp thuận theo Công văn số 14/QĐ/TGCP ngày 29/2/2000. Sau đó, Ban Thường trực Hội Đồng Trị sự GHPGVN ban hành Công văn số 062/CV-HĐTS ngày 16 tháng 3 năm 2000 thông báo về Ban Trị sự các tinh thành thống nhất đổi tên gọi “Trường Cơ Bản Phật Học” thành “Trường Trung cấp Phật học”. Tên gọi Trường Trung cấp Phật học Đà Nẵng bắt đầu từ đó và trường Trung cấp Phật học Đà Nẵng là một cơ sở giáo dục của Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Đà Nẵng…
2. QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
2.1. Mục tiêu
Y cứ vào Quy chế hoạt động của Ban giáo dục Phật giáo Trung ương, trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng có mục tiêu đào tạo các vị Tăng Ni trẻ trở thành những tu sỹ Phật giáo chân chính, chuyên cần học để tu, để hoằng pháp và để giúp đời; học để trao dồi đạo đức và trí tuệ, để thuận lợi hơn trên con đường tiến đến giải thoát. Bên cạnh việc trang bị kiến thức nền tảng về Phật học lẫn thế học, các Tăng Ni trẻ còn được dạy kỹ về nếp sống thiền môn nâng cao phẩm hạnh của người tu để sau này có đủ khả năng gánh vác trách vụ của một trú trì cơ sở Phật giáo và thực hiện các Phật sự lợi đạo ích đời.
2.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ giáo dục của trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng là định hướng cho thế hệ Tăng Ni trẻ không những nâng cao kiến thức và phẩm hạnh của người tu sĩ mà còn hoàn thiện tư cách công dân đối với đất nước, để đáp ứng sự phát triển chung của GHPGVN, theo đúng đường hướng “Đạo Pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, chương trình đào tạo hệ TCPH theo khung chương trình do Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương quy định, ngoài các bộ môn nội điển Phật học, nhà trường còn quy định đưa vào chương trình giảng dạy các chủ đề liên quan đến pháp luật nhà nước, luật tín ngưỡng Tôn giáo, Giáo dục An ninh Quốc phòng, v.v..
2.3. Tên trường, loại hình trường và địa điểm
a. Tên trường: Trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng
b. Loại hình trường: Trường đào tạo tôn giáo (tu sĩ Phật giáo)
c. Trụ sở của trường: Trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng chưa có trụ sở riêng, từ khi thành lập đến nay, Ban Trị sự GHPGVN TP. Đà Nẵng mượn tạm khu đất trong khuôn viên chùa Phổ Đà, số 340 Phan Chu Trinh, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng để làm trụ sở và sử dụng vào công tác giảng dạy, đào tạo Tăng Ni trẻ.
2.4. Nhân sự Ban giám hiệu qua các giai đoạn
Sau khi thành lập trường từ năm 1992 đến 2007, được sự đồng thuận của quý cấp lãnh đạo thành phố Đà Nẵng, Ban giáo dục Phật giáo Trung ương, Ban Trị sự GHPGVN TP. Đà Nẵng đã ban hành quyết định nhân sự Ban Giám hiệu nhà trường do cố HT Thích Từ Mẫn làm hiệu trưởng, HT. Thích Từ Tánh, HT Thích Thiện Toàn đồng phó hiệu trưởng, HT. Thích Hạnh Trí Giáo vụ, TT. Thích Từ Nghiêm thủ quỹ nhà trường.
Sau khi HT. Thích Từ Mẫn viên tịch vào năm 2007, để việc học tập của Tăng Ni trẻ không bị gián đoạn, đầu năm 2008, Giáo hội bổ nhiệm Ban giám hiệu, do HT. Thích Thiện Toàn làm hiệu trưởng, HT. Thích Hạnh Trí hiệu phó – Giáo vụ, TT. Thích Từ Nghiêm – hiệu phó và Đại Đức Thích Thông Đạo – thủ quỹ nhà trường.
Từ năm 2014 đến nay Ban Trị sự GHPGVN TP. Đà Nẵng bổ nhiệm Ban Giám hiệu mới do Thượng Tọa Thích Chúc Tín làm Hiệu trưởng, Đại đức Thích Huệ Chấn làm Phó hiệu trưởng kiêm Học vụ, Đại Đức Thích Thông Đạt làm Phó hiệu trưởng kiêm Giám Luật, Đại Đức Thích Huệ Đăng – Chánh Văn phòng, Đại Đức Thích Đức Hiệp và Sư Cô Thích Nữ Liên Nguyên – đồng Phó văn phòng, Sư Cô Thích Nữ Minh Hiền – Thủ quỹ, Đại Đức Thích Đạo Hạnh – Tổng giám thị, cùng các thành viên: Đại Đức Thích Hạnh Toàn, Đại Đức Thích Thiện Từ, Ni sư Thích Nữ Giới Hảo, Sư Cô Thích Nữ Thanh Mai, Sư Cô Thích Nữ Huệ Tịnh, Cư sĩ Huỳnh Quang Hậu, Cư sĩ Lê Ngọc Duy.
2.5. Đội ngũ giáo viên, nhân viên
Chư vị giảng viên nội điển và ngoại điển là đều có thâm niên giảng dạy, có trình độ am hiểu sâu sắc về chuyên môn. Đội ngũ giảng viên của nhà trường hiện đang tu học và sinh hoạt tại các chùa trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Các vị giảng viên được thỉnh giảng đều tùy thuộc vào kiến thức chuyên môn và sự phát tâm giảng dạy hoàn toàn phi lợi nhuận.
Ngoài các vị giảng viên ở tại thành phố Đà Nẵng, còn có những giảng viên từ thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Huế, Đà Lạt theo lời mời của Ban Giám hiệu đã hoan hỷ đứng lớp để truyền trao kiến thức, những triết lý sống cao đẹp, nếp sống thiền môn, nghệ thuật ứng xử nhà Thiền, rât hữu ích cho thế hệ Tăng Ni trẻ.
Trong những năm qua, nhà trường luôn chú trọng đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, đảm bảo sự cân bằng giữa học và tu. Đồng thời không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giảng sư và cán bộ quản lý văn phòng… Tận dụng tối đa cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học, hệ thống tài liệu học tập; đồng thời rút ra những bài học thực tiễn, nắm bắt, ứng dụng kịp thời với những khoa học mới của thời đại mới.
2.6. Chương trình giảng dạy
a. Yêu cầu tổng quát
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Giáo dục Phật giáo trung ương về chương trình cải cách Trung cấp Phật học, bắt đầu từ khóa VII (2016-2019), trường TCPH TP. Đà Nẵng đã đào tạo theo hệ 3 năm. Ban Giám hiệu nhà trường cũng đã bám sát theo khung chương trình giảng dạy cải cách Trung cấp do BGDPG Trung ương đề ra.
Cụ thể: Chương trình học chính quy là 3 năm, gồm 6 học kỳ. Mỗi học kỳ học trung bình 8 môn; mỗi tuần học 7 buổi. Trong đó, 6 buổi dành cho Tăng Ni sinh hệ TCPH, riêng Chủ Nhật học cả ngày dành cho SCPH và TCPH Cư sĩ. Mỗi môn học 45 tiết hoặc 60 tiết và hoàn tất trong một học kỳ, ngoại trừ các môn Việt Văn, Hán Văn, Phật pháp và Anh văn Phật pháp.
Theo khung chương trình, các môn được giữ theo trình tự từ học kỳ này sang học kỳ khác để đảm bảo tính tiếp nối kiến thức từ thấp lên cao và thuận lợi cho việc tổ chức thi học kỳ và thi tốt nghiệp.
Một học kỳ, mỗi TNS phải có đủ 4 cột điểm bao gồm: Điểm miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết và thi học kỳ. Nếu thiếu 1 cột điểm trong một học kỳ, TNS không được dự thi tốt nghiệp.
b. Chương trình giảng dạy hệ Trung Cấp Phật học cho người xuất gia
Năm thứ I: Lược sử Phật giáo Ấn Độ (HKI), Lược Sử Phật giáo Trung Quốc (HK 2), Phật Học Căn Bản, Luận Duy Thức, Kinh Pháp Cú, Tỳ-ni (HKI), Sa-di (HKII), Hán văn, Phật và Thánh chúng, Kinh Trường A-hàm, Cổ ngữ Pali, Việt văn, Anh văn Phật pháp, Anh văn đàm thoại.
Năm thứ II: Phật học căn bản, Thiền – Tịnh – Mật tông, Hán văn, Kinh Trung bộ, Kinh Trung A-hàm, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Oai nghi (HKI), Quy Sơn Cảnh Sách (HKII), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Duy thức tam thập tụng, Anh văn Phật học, Việt văn, Tiếng Việt thực hành.
Năm thứ III: Đại cương văn điển Phật giáo, Tăng Chi bộ, Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Duy Ma, Đại cương Giới Luật, Luận Phật thừa tôn yếu, Hán văn, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Văn học Phật giáo, Anh văn Phật học, Việt văn, Cổ ngữ Pali, Pháp luật Việt Nam, Hiến chương GHPGVN, Lịch sử Việt Nam, An ninh Quốc phòng.
c. Chương trình giảng dạy hệ Sơ cấp Phật học
Năm thứ I: học 05 môn: Hán văn (214 bộ), Tỳ-ni (âm nghĩa, HKI), Sa-di (âm nghĩa, HKII), Hai thời công phu, Phật học căn bản.
Năm thứ II: học 05 môn: Phật học căn bản, Hán văn (Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư), Oai nghi (âm-nghĩa, HKI), Quy Sơn cảnh sách (âm-nghĩa, HKII), Kinh Bát Đại nhân giác (HKI), Phát Bồ-đề tâm văn (HKII).
Năm thứ III: học 03 môn: Phật học căn bản, Hán văn (Sơ đẳng Phật học giáo khoa thư), Kinh Thập thiện, Pháp số.
d. Chương trình giảng dạy hệ Trung cấp Phật học Cư sĩ
Năm thứ I: học 07 môn: Phật học căn bản, Kinh Pháp cú, Kinh Bát Đại Nhân Giác (HKI), Kinh Bách Dụ (HKII), Lược sử Phật giáo Ấn Độ (HKI), Giới Luật người tại gia (HKI), Pháp số (HKII).
Năm thứ II: học 04 môn: Phật học căn bản, Luận Phật thừa tôn yếu, Kinh Nikaya (trích giảng), Kinh Thập thiện.
Năm thứ III: học 04 môn: Phật học căn bản, Đại cương Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Đàn, Lược sử Phật giáo Việt Nam.
Bên cạnh việc đào tạo hệ TCPH chính quy, nhà trường đã mở lớp Sơ Cấp Phật Học để cho những vị mới xuất gia thuộc các Hệ Phái, có cơ duyên sớm được học hỏi Phật pháp và giới luật căn bản, làm quen với môi trường giáo dục Phật giáo, thực tập nếp sống thiền môn để làm hành trang cho các cấp học cao hơn sau này.
Trước đây, GHPGVN chú trọng đến việc đào tào Tăng Ni nên có tên gọi là “Ban Giáo Dục Tăng Ni”.
Tuy nhiên, trước nhu cầu học hỏi Phật Pháp của hàng Cư sĩ tại gia, Trung ương Giáo hội đổi danh xưng Ban Giáo dục Tăng Ni thành “Ban Giáo Dục Phật giáo” tại Đại hội lần thứ VIII nhiệm kỳ 2017-2022 của GHPGVN. Có nghĩa là -giáo dục Phật giáo tại các trường Phật học không chỉ dành riêng cho người xuất gia mà Cư sĩ tại gia có thể được đào tạo chính quy. Có thể nói rằng Trường TCPH Đà Nẵng đã tổ chức giảng dạy hệ TCPH dành cho người Cư sĩ tại gia đầu tiên trên cả nước từ năm 2012, đã tốt nghiệp 2 khóa, hiện đang đào tạo khóa thứ III. Điều đáng khen ngợi là hàng Cư sĩ tại gia học tập rất chăm chỉ, có nhiều học viên ở rất xa như Quảng Ngãi, Quảng Nam, Hội An và một số vùng núi xa xôi đều đến trường học mỗi tuần.
2.7. Các khóa tốt nghiệp và đang theo học
Nhìn lại chặng đường giáo dục gần 30 năm, Trường TCPH Đà Nẵng vượt qua nhiều biến cố thăng trầm, đã đào tạo được 7 khóa, có hơn 1000 Tăng Ni sinh hệ TCPH đã tốt nghiệp. Hiện nhà trường đang đào tạo khóa VIII hệ TCPH và Sơ cấp Phật học khóa III dành cho người xuất gia và TCPH khóa III dành cho Phật tử tại gia. Cụ thể như sau:
a. Hệ Trung cấp Phật học cho người xuất gia (gọi là Tăng Ni sinh)
Khóa I (1992-1996) : 90 Tăng Ni sinh tốt nghiệp
Khóa II (1996-2000) : 125 Tăng Ni sinh tốt nghiệp
Khóa III (2000-2004) : 145 Tăng Ni sinh tốt nghiệp
Khóa IV (2004-2008) : 140 Tăng Ni sinh tốt nghiệp
Khóa V (2008-2012) : 130 Tăng Ni sinh tốt nghiệp
Khóa VI (2012-2016) : 179 Tăng Ni sinh tốt nghiệp
Khóa VII (2016-2019) : 170: Tăng Ni sinh tốt nghiệp
Khóa VIII (2019-2022) : 165 Tăng Ni sinh đang đào tạo
b. Hệ sơ cấp Phật học cho những người mới xuất gia
Khóa I (2015-2016) : 96 Tăng Ni sinh được cấp chứng nhận
Khóa II (2016-2019) : 70 Tăng Ni sinh được cấp chứng nhận
Khóa III (2019-2022) : 75 Tăng Ni sinh đang theo học
c. Hệ Trung cấp Phật học dành cho hàng Phật tử tại gia
Khóa I (2012-2015) : 70 Học viên Cư sĩ tốt nghiệp
Khóa II (2016-2019) : 76 Học viên Cư sĩ tốt nghiệp
Khóa III (2019-2022) : 95 Học viên Cư sĩ đang theo học.
2.8. Quy chế học tập và Nội quy
Xếp loại học tập và tuân thủ phẩm hạnh đạt loại xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, yếu trên cơ sở Quy chế học tập và Nội quy nhà trường.
2.8.1. Quy chế học tập
Căn cứ phiên họp Ban Giám Hiệu ngày 23/6/2017, Ban Giám hiệu Trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng ban hành quy chế học tập áp dụng cho các hệ đào tạo tại trường như sau:
a. HỌC LỰC:
-Xuất sắc: Tất cả các môn đạt điểm từ 9.0 trở lên
-Giỏi: Điểm trung bình các môn từ 8.0 trở lên, cho phép 3 môn từ 6.5 đến 7.9
-Khá: Điểm trung bình các môn từ 6.5 trở lên, cho phép 3 môn từ 5.0 đến 6.4
-Trung bình: Điểm trung bình các môn từ 5.0 trở lên, cho phép 3 môn từ 3.5 đến 4.9
-Yếu: Điểm trung bình các môn từ 3.5 trở lên, cho phép 3 môn từ 2.0 đến 3.4
-Kém: Điểm trung bình các môn dưới 3.5.
b. PHẨM HẠNH:
*Yêu cầu chung:
– Tuân thủ nghiêm túc nội quy nhà trường
– Học tập chuyên cần
– Có oai nghi
– Tham gia đầy đủ, nhiệt tình các hoạt động ngoại khoá
– Tham gia các hoạt động Phật sự chung của Giáo hội do BGH điều động.
*Xếp loại: được xếp thành 03 loại: Tốt, Khá, Trung bình.
-Tốt: Thực hiện đầy đủ các yêu cầu chung
-Khá,Trung bình: Được xét theo mức độ thực hiện các yêu cầu chung.
c. XẾP LOẠI CUỐI NĂM:
– Xuất sắc: Học lực Xuất sắc và phẩm hạnh Tốt
– Giỏi: Học lực Giỏi và phẩm hạnh Tốt
– Khá: Học lực Khá và phẩm hạnh Khá trở lên
– Trung bình: Học lực Trung bình và phẩm hạnh Khá trở lên
– Yếu: Học lực Yếu và phẩm hạnh Trung bình trở lên
– Kém: Học lực Kém và phẩm hạnh Trung bình trở lên.
2.8.2. Nội quy
(1) Tôn sư trọng đạo, lễ phép với các bậc tôn túc giáo phẩm, các vị trong ban giám hiệu và giảng viên, hòa nhã với bằng hữu.
(2) Giữ giới đã thọ, tôn trọng lẫn nhau theo giáo pháp lục hòa.
(3) Khi đến trường, TNS phải mặc đồng phục ( Bắc tông: Tăng sinh nhật bình nâu, ni sinh nhật bình lam, Nam tông và khất sĩ: mặc theo hệ phái) và đeo bảng tên. Học viên cư sĩ mặc áo tràng lam. Nếu vi phạm bị trừ nửa (0,5) điểm hạnh kiểm.
(4) Đi học đúng giờ. Nếu vào lớp trễ quá năm phút khi đã có hiệu lệnh thì bị trừ nửa (0,5) điểm hạnh kiểm.
(5) Ngồi đúng theo sơ đồ lớp: không nói chuyện, không đùa giỡn trong giờ học, hết giờ học ra khỏi lớp sau giáo viên.
(6) Đến lớp phải thuộc bài, nếu có quá 2 môn học có điểm dưới 3 ở cột điểm kiểm tra miệng trong một học kỳ thì bị trừ 1 điểm hạnh kiểm.
(7) Không bỏ học giữa giờ, nếu vi phạm xem như vắng học 1 buổi không phép.
(8) Vắng học phải có đơn xin phép với sự chấp thuận của bổn sư hoặc y chỉ sư. Vắng học có phép không quá 6 buổi trong một học kỳ, nếu vắng quá giới hạn thì bị trừ nửa (0,5) điểm hạnh kiểm.
(9) Vắng học không phép mỗi buổi bị trừ 1 điểm hạnh kiểm, nếu vắng không phép 10 buổi trong một học kỳ thì bị cho thôi học.
(10) Nghiêm chỉnh chấp hành các sinh hoạt tập thể của trường, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng, bị trừ 1 điểm hạnh kiểm.
(11) Bảo vệ tài sản chung của nhà trường, tiết kiệm điện nước khi sử dụng
(12) Không được sử dụng điện thoại, máy nghe nhạc, ipad … trong giờ học, nếu vi phạm sẽ bị tịch thu và cho thôi học.
(13) Để xe đúng nơi quy định, có trật tự và khóa xe cẩn thận.
(14) Giữ gìn vệ sinh chung.
(15) Tuyệt đối không được hút thuốc.
Bản nội quy này gồm 15 điều, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo các quy định trên.
2.9. Chất lượng đào tạo
Hiện nay, trường TCPH thành phố Đà Nẵng là một trong 34 trường TCPH trên cả nước, được Trung ương giáo hội và Ban giáo dục Phật giáo Trung ương đánh giá cao về chất lượng đào tạo và hướng dẫn cho Tăng Ni sinh viên tu học đúng với hiến chương giáo hội và pháp luật nhà nước. Rất nhiều Tăng Ni sinh sau khi tốt nghiệp đã thi đỗ vị thứ cao vào các Học viện Phật giáo. Nhiều vị ở các khoá trước, sau khi tốt nghiệp đã tiếp tục theo học Cử nhân, Cao học, Tiến sĩ tại các trường Phật học trong và ngoài nước.
Nhiều thế hệ Tăng Ni xuất thân từ ngôi trường này đang từng bước trưởng thành trong đời sống phạm hạnh, luôn nhiệt tâm phụng sự Chánh pháp trên mọi lĩnh vực, tham gia gánh vác nhiều Phật sự lợi đạo ích đời.
2.10. Những đóng góp của nhà trường cho Giáo hội và xã hội
Với chương trình giảng dạy như trên, Tăng Ni sinh và học viên Cư sĩ đã được trang bị nền tảng kiến thức quan trọng của Phật học, thế học cũng như rèn luyện phẩm hạnh đạo đức của người xuất gia, đặc biệt là được rèn luyện ý thức biết tu học và hành đạo theo đúng phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội”, tuân thủ Pháp luật của nhà nước để làm tốt tư cách công dân và biết ứng dụng lòng từ bi để cùng sẻ chia những khó khăn về đời sống của người dân. Với nền tảng trí đức đó, nhà trường đã và đang đóng góp rất nhiều cho giáo hội và xã hội, cụ thể như:
a. Những đóng góp cho Giáo hội
Nhiều Tăng Ni, sau khi tốt nghiệp tại trường TCPH Đà Nẵng và tốt nghiệp tại các Học viện Phật giáo đã được bổ nhiệm trú trì và đang là thành viên của Ban Trị sự GHPGVN thành phố Đà Nẵng và Ban Trị sự Phật giáo các quận huyện, có nhiều vị đảm nhiệm vai trò chủ chốt để điều hành Phật sự giúp cho Giáo hội Phật giáo thành phố ngày một phát triển.
Hòa nhịp chung với các Phật sự tại thành phố, Ban giám hiệu (BGH) nhà trường, Tăng Ni và học viên Cư sĩ các khóa khi còn đang học tại trường đã tham gia nhiệt tình các hoạt động của Phật giáo thành phố như các kỳ Đại Giới Đàn, Đại Lễ Phật Đản, Lễ Thành Đạo, Lễ tang chư Tôn túc, Đại hội Phật giáo thành phố, v.v…
Với tinh thần sáng tạo và nhiệt huyết của tuổi trẻ, BGH và các Tăng Ni sinh đã tham gia vào việc kiến thiết góp phần cho sự trang nghiêm và thành tựu của các Phật sự, tạo thêm năng lượng tâm linh góp phần cầu nguyện cho sự bình an của thành phố Đà Nẵng.
b. Những đóng góp cho xã hội
Những vị đã tốt nghiệp tại trường, được Chính quyền và Giáo hội tin tưởng nên nhiều vị được bổ nhiệm trú trì tại các tự viện trên địa bàn thành phố và tích cực hưởng ứng tham gia mọi chủ trương, chỉ thị, tuân thủ mọi quy định của pháp luật. Đặc biệt trong công tác tuyên truyền nếp sống văn hóa văn minh đô thị, không rải muối gạo hay đốt vàng mã ngoài đường, tham gia nhiệt thành vào công tác an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, hiến máu nhân đạo, ngày Chủ Nhật xanh, thường xuyên thăm hỏi và tặng quà cho những hoàn cảnh neo đơn và trung tâm giáo dưỡng .v.v. Tại các tự viện, thường mở các khóa tu dạy đạo đức lối sống cho con em Phật tử biết tránh xa những tệ nạn, siêng năng rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng ứng xử.
IV. NHỮNG THÀNH TỰU
Là một ngôi trường nằm trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, nơi mà hành trạng của nhiều bậc cao Tăng đã ươm mầm bi trí và truyền thống Phật học vốn có bề dày của Tỉnh nhà. Trong suốt gần 30 năm qua, Trường TCPH Đà Nẵng tiếp nối chí nguyện đào tạo Tăng tài, bằng nỗ lực tự thân đã vươn lên trong thử thách, gian khó, để rồi đã đào tạo 7 khoá tốt nghiệp với số lượng hơn 1000 TNS và đang đào tạo khoá VIII. Trên toàn quốc hiện nay có 34 trường TCPH, tổng số Tăng Ni sinh tốt nghiệp hệ Trung Cấp cho đến thời điểm hiện nay là khoảng 10.000. Như vậy, trường TCPH Đà Nẵng đã góp phần đào tạo một số lượng không nhỏ Tăng Ni sinh hệ Trung Cấp Phật học.
Một trong những điểm nổi bật của trường là ngoài các vị xuất gia, tu học trong thành phố, còn có rất nhiều Tăng Ni sinh từ nhiều tỉnh thành khác trên cả nước đến học tập trong nhiều khóa trước. Với tâm huyết và chất lượng đào tạo có hiệu quả, nên có thể xem nhà trường như là một trong những điểm nối kết giữa Phật giáo thành phố nhà và Phật giáo các tỉnh thành lân cận.
Những thành tựu mà trường đã đạt được hơn một phần tư thế kỷ qua là một động lực tích cực để Giáo hội, Ban Giám hiệu nhà trường trao dồi niềm tin, vun bồi chí nguyện, tăng trưởng công hạnh, một lòng phụng sự cho sứ mạng đào tạo và tôi luyện những hạt giống Bồ-đề, từ đó mới có những thế hệ Tăng sĩ kế thừa Thầy Tổ, thực hiện trọng trách kế vãng khai lai, góp phần cho sự an bình chung của thành phố.
Những thành tựu khả quan đạt được trong chặng đường vừa qua của trường TCPH Đà Nẵng, đó là nhờ sự cho phép và ủng hộ của Quý cấp Chính quyền, sự ủng hộ của Tăng Ni Phật tử trên địa bàn thành phố và nhiều thuận duyên thù thắng khác, gần và xa, trực tiếp cùng gián tiếp, sôi nổi và âm thầm…tất cả đều hòa quyện trong bản giao hưởng nguyện lực vô biên, tạo nên một tấu khúc vô ngã để phụng sự cho sự nghiệp chung của Phật giáo thành phố.
V. KINH PHÍ HOẠT ĐỘNG
Từ khi thành lập đến nay, Tăng Ni sinh và Học viên Cư sĩ học tập tại trường TCPH Đà Nẵng hoàn toàn miễn phí.
Bộ phận Ban Giám hiệu, Văn phòng, Giám thị và các vị giảng viên của nhà trường làm việc trên tinh thần tự nguyện, hoàn toàn phi lợi nhuận.
Mọi kinh phí để điều hành, hoạt động của nhà trường, cũng như tu sửa chỉnh trang cơ sở vật chất, thiết bị giảng dạy của nhà trường chủ yếu nhờ vào sự phát tâm hỗ trợ của Tăng Ni Phật tử và các nhà hảo tâm.
PHẦN B
TRĂN TRỞ VỀ TRỤ SỞ, CƠ SỞ VẬT CHẤT NHÀ TRƯỜNGVÀ NGUYỆN VỌNG CẤP THIẾT XIN ĐẤT XÂY DỰNG TRƯỜNG
Bên cạnh những thành tựu khả quan trong thời gian qua, Ban Trị sự GHPGVN TP. Đà Nẵng luôn lo lắng, trăn trở những tác động tiêu cực của thời công nghệ thông tin vào đời sống của thế hệ trẻ trong đó có Tăng Ni – những tu sĩ trẻ của Phật giáo.
Khác với môi trường giáo dục thế học, trong môi trường giáo dục Phật học không chỉ dừng lại ở việc truyền trao kiến thức và nền tảng đạo đức mà còn phải thực hành thời khóa tu học theo quy củ Thiền môn, giữ gìn giới luật oai nghi, hoàn thành phẩm hạnh của người tu sĩ, từ đó có đầy đủ Trí đức nhằm phục vụ Giáo hội và xã hội một cách hiệu quả.
Với những yếu tố khách quan trên, việc tu học ngoại trú của Trường Trung cấp Phật học Đà Nẵng hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản lý Tăng Ni sinh, không đáp ứng được tiêu chí mà Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương đã đề ra như ý kiến chỉ đạo của Cố Trưởng lão Hòa Thượng Thích Chơn Thiện – Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương kiêm Trưởng Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương phát biểu: “Các cơ sở Giáo dục Phật giáo phải tập trung tổ chức nội trú cho Tăng Ni sinh. Sinh hoạt nội trú là biện pháp tốt nhất để theo dõi việc học hành, nhất là phẩm hạnh của Tăng Ni sinh. Có nội trú nhà trường mới giữ được truyền thống tu học của nhà chùa, phải dứt khoát xem nội trú là điều kiện tiên quyết để thành lập một trường học, không tổ chức được nội trú thì không nên mở trường”.
Như đã đề cập, trường Trung cấp Phật học Đà Nẵng là cơ sở đào tạo Tăng Ni của GHPGVN thành phố Đà Nẵng, được thành lập từ năm 1992, hiện nằm trong khuôn viên chùa Phổ Đà, số 340 Phan Châu Trinh, phường Bình Thuận, quận Hải Châu. Mỗi niên khóa, Trường tuyển sinh từ 300 đến 400 bao gồm các hệ đào tạo. Trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng chưa có trụ sở riêng, từ khi thành lập đến nay, Ban Trị sự GHPGVN TP. Đà Nẵng mượn tạm khu đất trong khuôn viên chùa Phổ Đà, số 340 Phan Chu Trinh, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng để làm trụ sở và sử dụng vào công tác giảng dạy, đào tạo Tăng Ni trẻ. Do sử dụng một phần diện tích đất trong khuôn viên chùa Phổ Đà (khoảng 300m2) nên chỉ đảm bảo cho lớp Trung cấp của Tăng sinh, riêng lớp Trung cấp Ni sinh phải mượn hội trường của chùa Bảo Quang để học tập và chưa có các phòng chuyên môn. Khuôn viên chùa Phố Đà không đủ rộng để tổ chức các sinh hoạt giảng dạy, học tập và hoạt động chuyên môn, thậm chí nơi để xe, khu vệ sinh và đều rất chật hẹp nên gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, do nhà trường vì thiếu cơ sở vật chất nên không thể tổ chức sống tập trung nội trú, khó bề quản lý sự tu học của Tăng Ni sinh theo đúng chuẩn mực. Đúng ra trường Phật học nói riêng phải quản lý Tăng Ni sinh 24/24, thì mới đào tạo Tăng Ni sinh trở thành một nhà tu theo đúng quy chuẩn Phật dạy, Hiến chương Giáo hội và Nội quy của Ban Giáo dục Phật giáo trung ương. Hơn nữa Tăng Ni sinh sống tập thể mới tu học có hiệu quả. Đức Phật đã từng chế, Tăng già phải bốn người trở lên “Tăng ly chúng Tăng tàn”, vì vậy trường TCPH, nơi đào tạo Tăng tài, phải tổ chức sống nội trú tập thể, mới mong đào tạo những vị Tăng Ni đủ tài đủ đức làm sứ giả Như Lai để sau này phụng sự xã hội, lợi đạo ích đời.
Nhận thấy nhiệm vụ đào tạo Tăng, Ni đúng theo chương trình các cấp Phật học của Trung ương Giáo hội là rất cấp thiết. Việc xây dựng ngôi trường Trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng là do nhu cầu thiết thực của Tăng Ni, Phật tử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng mong muốn có nơi đào tạo chính quy, chuyên nghiệp về Phật học ngày càng tăng, đồng thời thực hiện hoài bão của các bậc trưởng lão Hòa thượng qua các thời kỳ tiền nhiệm và nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo sự cân bằng giữa tu và học, với chủ trương tất cả Tăng Ni đều ở nội trú; vậy nên phải có một ngôi trường Trung cấp Phật học nội trú là điều tất yếu và cấp thiết.
Từ 2019 đến nay, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành phố Đà Nẵng đã có Tờ trình xin lãnh đạo thành phố một khu đất để xây dựng trường TCPH Đà Nẵng nhưng đến nay vẫn chưa được sự thống nhất của thành phố.
Trước sự phát triển của nền giáo dục Phật giáo thành phố, cũng như yêu cầu của Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương, Thường trực Ban Trị sự GHPGVN thành phố Đà Nẵng, cũng như nguyện vọng của toàn thể Tăng Ni, Phật tử, rất mong quý cơ quan, Chính quyền các cấp thành phố, các Sở Ban ngành liên quan tạo mọi điều kiện cho Giáo hội được có khu đất như ý, làm sơ sở vừa đào tạo vừa nội trú để chất lượng học tập và đạo hạnh của Tăng Ni sinh và Học viên Cư sĩ được nâng cao.
Nếu được cấp đất, Ban Trị sự GHPGVN TP. Đà Nẵng dự kiến sẽ xây dựng trường với các hạng mục như sau:
1. Khối lớp học, phòng hiệu bộ, phòng bộ môn, thư viện, nhà ăn
Dự kiến được thiết kế 6 tầng, Trong đó:
a) Phòng học : 14 phòng (công năng 44 – 76 người/phòng)
b) Phòng đa năng : 01 phòng (công năng 350 người)
c) Nhà ăn : công năng 460 người
d) Khối phục vụ học tập: Thư viện (công năng 500 người), phòng hoạt động Tăng – Ni, phòng truyền thống
e) Khối hành chính – quản trị gồm phòng làm việc của Hiệu trưởng, các Phó Hiệu trưởng, văn phòng, phòng họp toàn thể giảng sư, giáo viên và nhân viên nhà trường, phòng các tổ chuyên môn, phòng y tế trường học, phòng khách…
g) Phòng học bộ môn: văn phòng, phòng đào tạo, phòng tổ chức, phòng lưu trữ…
f) Khu tụng niệm sức chứa 600 chỗ ngồi.
2. Khối ký túc xá Tăng
Khối ký túc xá Tăng trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng được thiết kế 4 tầng, Trong đó:
a) 26 phòng cho ngủ, khu vệ sinh giặt phơi trong phòng (khoảng 208 chỗ).
b) Ngoài ra còn có các phòng chức năng khác như: quản lý, tiếp khách, ….
3. Khối ký túc xá Ni
Khối ký túc xá Ni trường Trung cấp Phật học thành phố Đà Nẵng được thiết kế 3 tầng, Trong đó:
a) 25 phòng cho ngủ, có khu vệ sinh giặt phơi trong phòng (khoảng 200 chỗ).
b) Ngoài ra còn có các phòng chức năng khác như: quản lý, tiếp khách…
4. Khối hội trường
Khối Hội trường với 1 tầng hầm + 1 tầng trệt + tầng lửng (1000 chỗ).
5. Khu sân chơi, bãi tập
Diện tích sân chơi bãi tập, tỉ lệ cây xanh, bóng mát; khu bãi tập có trang bị những thiết bị luyện tập thể dục thể thao phục vụ cho Tăng Ni sinh trong thời gian học tập tại trường.
6. Cổng ngõ, tường rào, khu để xe
Dự kiến bố trí cổng ngõ tường rào phù hợp kiến trúc cổ kính; Khu nhà để xe được bố trí hợp lý, đảm bảo an toàn, trật tự trong tầng hầm của Khu hội trường. Ngoài ra còn có vườn hoa, sân trường… đủ để tổ chức giảng dạy, học tập, sinh hoạt chuyên môn, tổ chức thực hành các nghi thức tôn giáo…
Tóm lại, trên đây là khái quát quá trình hình thành và phát triển của trường TCPH thành phố Đà Nẵng tính đến năm 2021.
TT. THÍCH CHÚC TÍN